Ngồi trò chuyện với Thầy – viết bởi  Sondra Kaighen

Tôi tính phỏng vấn Thầy đã lâu, tôi muốn tìm hiểu về Thầy, người đã ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi theo một cách sâu sắc, và chia sẻ những gì tôi học được với tất cả các bạn. Trong khi hầu hết các bạn đều biết "bằng cấp" và lịch sử của của Thầy liên quan đến con đường "tu sĩ" của ông. Mục đích của tôi cho cuộc phỏng vấn này là để tìm hiểu thêm về sự phát triển của con người trong Thầy. Tôi thực sự đã có kế hoạch cho dự án này cách đây khoảng 3 năm, trong khi đang trong thời gian lưu trú. Tuy nhiên, các điều kiện chưa chín mùi để đưa nó thành hiện thực. Nhưng bây giờ, khi chúng ta đang ở vào thời điểm kỷ niệm 20 năm của Giáo đoàn Giáo thọ (Dharma Teacher Order), tôi đã trở lại dự án này với nhiều quyết tâm hơn.

 

Thầy sinh ra với tên thật là Trương Văn Bình tại Quảng Nam, Việt Nam vào ngày 2 tháng 5 năm 1949. Gia đình của thầy gồm 9 người con, cha mẹ và bà ngoại. Cha thầy là một tài xế xe tải. Mẹ thầy được mô tả là "người có ảnh hưởng nhất" trong cuộc đời thời thơ ấu của Thầy. Nhà Thầy còn có một người bạn “lông lá”, một chú chó không tên mà mẹ thầy rất cưng chiều. Biệt danh của Thầy khi còn nhỏ là "Bình Móm". Thầy nhớ lại mình là một đứa trẻ buồn bã, vì sợ tiếng động của chiến tranh, luôn hiện trong tuổi thơ của mình. Thầy học trường trung học Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng và người bạn thân nhất của thầy là Lý. Thầy đã may mắn được gặp lại Lý, khoảng 30 năm sau khi thầy biết được Lý chỉ sống cách Thầy vài dặm ở Texas. Thầy thừa nhận rằng ban đầu môn học yêu thích nhất của Thầy ở trường là Cơ đốc giáo, mà thầy đã học qua khóa học của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm. Sau đó, thầy bắt đầu quan tâm đến Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.

 

Khi được hỏi lần đầu tiên thầy nhớ lại mình nhìn thấy Đức Phật khi nào, thầy trả lời là khi còn nhỏ, khi đi chùa với bà. Hoạt động ngoại khóa mà Thầy thích khi còn nhỏ là năm tham gia Đội Thiếu sinh Hướng đạo, từ năm 9 đến 14 tuổi. Thầy cũng kể về người bạn tập sự có ảnh hưởng nhất của mình là “Sa” ở Chùa Phổ Đà ở Đà Nẵng. Thầy nhớ lại những năm tháng đi học của mình với sự thích thú lớn, kể về hơn 50 học sinh trong mỗi lớp. Thầy cũng chia sẻ câu chuyện về chuỗi tràng hạt “bí mật” mà thầy luôn mang theo trong túi khi còn là học sinh. Thầy sẽ dùng chuỗi tràng hạt để thầm niệm Phật, cho đến một ngày khi người bạn của thầy rút tay ra khỏi túi, với chuỗi tràng hạt nắm chặt trong tay, trong khi bạn bè cười. Nhạc sĩ yêu thích của Thầy là Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ cũng như một nhà hoạt động rất có ảnh hưởng. Thầy mô tả chị gái của mình là người mà thầy thân thiết nhất trong gia đình lớn của mình. Khi được hỏi về một câu chuyện có thể khiến người khác ngạc nhiên, thầy nói rằng mình bắt đầu xin xuất gia làm sa di từ năm 12 tuổi. Bố mẹ, anh không đồng ý, tin rằng đây Thầy sẽ thay đổi. Tuy nhiên, sau khi chuyển sang ăn chay ở độ tuổi còn nhỏ trong gia đình ăn mặn của mình, cuối cùng gia đình Thầy cũng nhượng bộ, nhận ra quyết tâm của Thầy với nguyện vọng của mình.

 

Khi kể về cuộc sống của mình trong gia đình, Thầy tự hào tuyên bố, “gia đình tôi đều rất ủng hộ lẫn nhau, và tôi không thể tưởng tượng được mình được sinh ra trong một nền văn hóa khác, hoặc trong một gia đình khác”. Khi nhớ lại một “câu chuyện quan trọng” từ thời thơ ấu của mình, Thầy đã hồi tưởng về một người chú đã làm việc cho phong trào Độc lập ở Việt Nam bị chiến tranh tàn phá, sau đó thấy chú bị giam cầm vì lý do đó. Thầy nói rằng khi thầy 6 tuổi, thầy nhớ rất rõ người chú trở về sau khi được thả khỏi tù. Thầy không biết người đàn ông đó là ai, nhưng nhớ lại mẹ mình đã khóc vì sung sướng khi người chú trở về. Thầy kể câu chuyện về người chú này và nói rằng đó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cả gia đình thầy ăn mừng. Thầy buồn bã kể rằng mình đã mất 8 thành viên trong gia đình.

Khi Thầy đang tìm cách để đắm mình sâu hơn vào việc nghiên cứu Phật giáo, Thầy đã nhìn thấy một dấu hiệu cho một cơ hội như vậy ở Ấn Độ, nơi có một học bổng đang được trao. Thầy đã được cơ hội đó khi biết rằng không có ai khác nộp đơn, vì hầu hết người dân Việt Nam đều coi Ấn Độ là 'quá nghèo' để đến. Sau đó, Thầy đã dành một năm tiếp theo ở Ấn Độ để theo đuổi cơ hội giáo dục đó. Giáo dục trung học của Thầy đã đạt đến đỉnh cao với bằng Cử nhân Văn chương năm 1971 và Phật giáo năm 1972. Thầy đã nhận được bằng "Tiến sĩ" về Hán học năm 1984 tại Leiden, Hà Lan. Trải nghiệm đại học đáng nhớ nhất của Thầy là sự hỗ trợ của Thầy trong phong trào phản chiến. Thông qua trải nghiệm giáo dục này, Thầy cũng trở nên thông thạo tiếng Anh, tiếng Quan Thoại và tiếng Hà Lan ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt. Trong thời gian này, Thầy đã được một cộng đồng Cơ đốc giáo hỗ trợ, tuy nhiên Thầy ngày càng trở nên vững chắc hơn trong nền tảng Phật giáo của mình và muốn rời khỏi cộng đồng Cơ đốc giáo. Tuy nhiên, Thầy cảm thấy có nghĩa vụ với họ vì sự hỗ trợ của họ. Thầy nói rằng đây là thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời, cảm thấy cô đơn và xa cách với quê hương và dân tộc. Sau đó, Thầy viết thư cho thầy của mình, Thích Trí Thủ, và xin lời khuyên. Thầy của Thầy bảo thầy hãy theo tiếng gọi của trái tim và truyền bá Phật pháp ở bất cứ nơi nào thầy đến. Sau đó, Thầy đã thỏa thuận với các ân nhân, đồng ý cho họ một năm làm việc để đền đáp lòng tốt của họ. Thầy đã tin rằng hành trình của mình là học tiếng Hoa để có thể làm việc dịch Tam Tạng kinh điển.

Năm 1994, Thầy gia nhập Cộng đồng Làng Mai của Thích Nhất Hạnh trong thời gian một năm. Trong năm trọng đại đó, Thích Nhất Hạnh đã viết 3 tập lịch sử Phật giáo (từ năm 1965 đến nay), và yêu cầu Thầy viết tập thứ 4, tuy nhiên Thầy đã rời Làng Mai trước khi điều đó được thực hiện. Thích Trí Thủ là người cố vấn.Thích Trí Thủ cũng là thầy của Thích Nhất Hạnh. Sáu anh chị em của Thầy và cha của Thầy đã chuyển đến Texas (khu vực Dallas và Wichita Falls) vào năm 1980. Năm 1995, lần đầu tiên Thầy đến Hoa Kỳ. Tuy nhiên, lúc đầu Thầy không đến Texas, vì Thầy được mời gia nhập một ngôi chùa ở Connecticut, nơi Thầy ở lại trong 12 năm tiếp theo. Đây cũng là nơi Giáo đoàn Giáo thọ (DTO) được hình thành và ra đời. Sau Connecticut, Chùa Chuang Yen ở Tiểu bang New York đã mời Thầy và Tỳ kheo Bodhi đến ở tại chùa của họ. Trong khi thời gian Thầy ở Chuang Yen có nhiều sự kiện, do bất đồng quan điểm về việc liệu dân thường có thể được thọ phong làm pháp sư hay không. Thầy đã rời Chuang Yen, chuyển đến một ngôi chùa ở Boston trước khi đến Pearland, Texas vào năm 2009.

Em ruột của Thầy, Pháp Nghiêm cùng với cộng đồng Phật tử tại Texas đã mua đất trong khu vực và yêu cầu Thầy đến xây dựng Chùa Pháp Nguyên và làm chủ trì tại đó. Thầy đã ở lại Pearland kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, Thầy vẫn giữ mối liên hệ với tất cả các ngôi chùa khác ở Hoa Kỳ mà Thầy đã sống, để lại dấu chân của mình ở mỗi nơi thông qua những hạt giống DTO mà Thầy đã rải rác. Khi được hỏi Thầy cảm thấy thoải mái nhất ở đâu, Thầy nói rằng "Tôi ở đâu không quan trọng. Chùa ở đâu, đó là nhà của Thầy". Thầy cũng thú nhận rằng nếu không có chiến tranh ở Việt Nam, Thầy sẽ không bao giờ rời khỏi quê hương của mình.

Thầy cũng ghi nhận Tổng thống Bill Clinton có lẽ là nhân vật có ảnh hưởng nhất trong việc giúp chấm dứt lệnh cấm vận ở Việt Nam. Thầy nói rằng cả Tổng thống và Đệ nhất phu nhân, Hillary, đều đấu tranh không mệt mỏi chăm sóc sức khỏe quốc gia tại Hoa Kỳ, và thầy nghi ngờ rằng người dân Việt Nam sẽ thương tiếc cái chết của vợ chồng Clinton, bất cứ khi nào thời điểm đó đến, vì họ là những người ủng hộ trung thành của cặp đôi chính trị cao này.

Công việc đầu tiên của Thầy là viết một cuốn từ điển Việt-Hà Lan cho Người tị nạn, một dự án mất 2 năm để hoàn thành, tuy nhiên bạn có thể tìm thấy bản biên soạn này trực tuyến tại https://www.bol.com/nl/f/vietnamees-nederlands-nederlands-vietnamees-woordenboek- tu-dien-viet-hoa-hoa-viet/37720938. Tuy nhiên, công việc "yêu thích" của Thầy mà thầy nhớ lại là làm việc tại các trại tị nạn ở Hà Lan và Hồng Kông. Thầy trả lời rằng công việc "tệ nhất" của mình là công việc lao động một năm, được nêu ở trên, cho nhóm tôn giáo đó.

Thầy định nghĩa hạnh phúc của mình là “sống không ham muốn, không hận thù hay vô minh”. Thầy trích dẫn đọc và viết là những thú vui yêu thích của mình và muốn viết thêm một cuốn sách nữa vào một ngày nào đó. Thầy gọi thầy của mình, Thích Trí Thủ, là người có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời tu sĩ Phật giáo của mình, và nỗi sợ lớn nhất của mình là âm thanh và trải nghiệm chiến tranh, điều mà thầy đã mất hơn 10 năm để giải thoát bản thân.

Thầy hình dung ra việc thành lập DTO là kết quả của mong muốn “đi sâu” vào nghiên cứu Phật giáo của các học trò của mình, Richard Zipoli, Richard và Adrienne Baksa và Noble Silence, vào năm 1996. Giấc mơ này đã trở thành hiện thực vào năm 2000 khi thành lập DTO ngày nay. Sáng tạo và hy vọng đáng tự hào nhất của Thầy là duy trì DTO và Dự án Nhà tù (bao gồm Khóa học Phật giáo qua thư, phục vụ nhà tù lưu động được thành lập sau đó, cũng như tất cả những người cố vấn và người tham gia vào các dự án này). Tầm nhìn của Thầy về sự tiếp nối của DTO, nói một cách đơn giản, là sự tiếp tục truyền bá Phật pháp và bao gồm cả những người tại gia trong việc truyền bá Phật pháp. Thầy cũng thông báo rằng Thầy đã viết một bài báo nhân dịp Thích Trí Thủ viên tịch, tóm tắt công việc của Thầy tại Hoa Kỳ và với DTO. Sau đó, Thầy biết rằng bài báo này đã truyền cảm hứng cho công việc truyền bá Phật pháp tương tự ở Việt Nam.

Cuối cùng, khi được hỏi di sản nào mà Thầy muốn để lại cho tất cả học trò của mình, Thầy chỉ nói đơn giản, "hãy cố gắng hết sức để chia sẻ Phật pháp". Và, khi được hỏi liệu Thầy có thể gặp Đức Phật ngày hôm nay không, Thầy sẽ đặt câu hỏi gì cho Đức Phật, Thầy cười và nói "sao Ngài mất 49 ngày để đạt được Giác ngộ, trong khi tôi đã thiền định hơn 49 năm mà vẫn chưa đạt được Niết bàn!".