QUAN
ĐIỂM PHẬT GIÁO về ĐỒNG TÍNH
Thích
Trí Hoàng
Ngày 6 tháng 10 năm 1998, Matthew
Shepard đã bị đám thanh niên Cơ Đốc
Giáo cuồng tín đánh đập, tra tấn
dã man cho đến chết chỉ vì em là
đồng tính! Khi đó em chỉ mới 22 tuổi,
đang theo học tại Đại Học Wyoming, Hoa
Kỳ, và đang ở tuổi thành niên
với một tương lai rạng rỡ. Em không
gây thù chuốc oán với ai, em chỉ sống
trung thực với giới tính của em
mà thôi. Nhưng với những tôn giáo tôn
sùng Thánh Kinh Cựu Ước (Old Testament)
như Cơ Đốc Giáo (Thiên Chúa, Tin Lành),
Do Thái Giáo và Hồi Giáo đều kết
án đồng tính là ác quỷ, là Satan.
Với sự mê muội cuồng tín đó
họ đã giết em một cách dã man khi nhân
danh “Thiên Chúa của Tình Thương và Chân
Lý”. Bài viết này là nén hương
cầu nguyện hương hồn em được
sinh về cõi Phật và cầu nguyện cho
tất cả những người thuộc
giới tính thứ ba trên khắp thế
giới không còn bị đối xử phân
biệt vì sự mê muội cuồng tín.
Vấn đề đồng tính
hiện nay vẫn còn là nỗi đau lớn
của một phần không nhỏ của nhân loại (5%
của 7 tỷ dân số = 350 triệu con người,
lớn hơn dân số Hoa Kỳ!). Tuy rằng
càng ngày càng có nhiều quốc gia chấp
nhận hôn nhân đồng tính, nhưng những
quốc gia chưa chấp nhận vẫn còn nhiều.
Trong đời sống tôn giáo, xã hội;
người đồng tính vẫn còn bị
đối xử phân biệt, cô lập và bách
hại. Hàng năm tại Hoa Kỳ hơn 34.000 thanh
thiếu niên đồng tính đã tự
tử (1) vì gia đình, xã hội, tôn
giáo.. đã kết án và ruồng bỏ
họ! Không phải bây giờ những
người đồng tính mới bị
đối xử phân biệt, nhưng họ đã
bị bách hại có hệ thống hơn hai
ngàn năm nay từ khi những tôn giáo
độc thần, sử dụng Thánh Kinh
Cựu Ước như Thiên Chúa, Tin Lành,
và Hồi Giáo ảnh hưởng vào
xã hội.
Tôn
Giáo và Đồng Tính:
Xã hội Âu Châu cổ đại chấp
nhận đồng tính như một lối sống
bình thường và điều này
đã phản ánh trong thần thoại Hy Lạp
trong đó có nhiều vị thần đồng
tính như Achilles, Zeus, Apolo, Poseidon, Heracles, Narcissus,
Dyonisus …(2) Nhưng đến khi Thiên
Chúa Giáo (Catholic) phát triển thì
đồng tính bị kỳ thị (3), khốc
liệt nhất với “thánh” Thomas Aquinas. Nhà
thần học Thiên Chúa Giáo này chủ
trương đồng tính là trái với
Luật Tự Nhiên (4). Trong lịch sử của
Tòa Thánh Vatican, những người
đồng tính bị kết án là quỷ Satan
hay phù thủy và bị thiêu sống bởi
Tòa Án Dị Giáo (Spanish Inquisition) lên đến
hàng chục triệu người! Hitler cũng đã
thiêu sống hàng triệu đồng tính. Sau
này Tin Lành (Protestant) vẫn không khoan
nhượng với đồng tính, vẫn
kết án đồng tính là quỷ Satan,
là bịnh hoạn; cho dầu Hiệp Hội Tâm
Thần Mỹ (American Psychiatric Association) năm 1973 và
Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới WHO
(World Health Organization) năm 1990 đã xác nhận
đồng tính không phải là bệnh hoạn,
nhưng là xu hướng tính dục bẩm
sinh. Hiện nay, tuy Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ
đã công nhận hôn nhân đồng giới, nhưng
vẫn còn nhiều tiểu bang ở Mỹ không
chấp nhận chính sách này
Tại Á Châu, đồng tính được
đối xử rộng lượng hơn và
không bị bách hại. Trong thần thoại Ấn
Độ có những vị thần đồng
tính như thần lửa Agni đã khẩu dâm
với thần mặt trăng Soma. Tại Trung
Quốc, Lão Giáo cũng có những vị
tiên đồng tính như Lam Thể Hòa, vua Vũ
nhà Hạ, Châu
Vương, Khuất Nguyên..
Trong các triều đại tại Trung Quốc có
những vị vua đồng tính như Vệ Linh
Công thời Chiến Quóc yêu Di Tử Hà; Hán
Văn Đế yêu Đặng Thông; Hán Ai
Đế sủng ái Đổng Hiền.., vua Càn Long nhà Thanh sủng ái
Hòa Thân; vua Khải Định (Việt Nam).. Khổng Giáo cũng không
kết tội đồng tính như Cơ Đốc
Giáo, Hồi Giáo. Tuy rằng với văn
hóa Trung Quốc, vấn đề nối dòng
nối dõi là quan trọng, bổn phận của nam
giới là lấy vợ sinh con, quan hệ
vợ chồng (phu thê) là một trong năm
giềng mối của xã hội. Nhưng quan hệ bạn
bè (bằng hữu) cũng là một trong
năm mối quan hệ đó (5), trong quan hệ
“bằng hữu” đó bao hàm quan hệ
đồng tính một cách không chính
thức. Trong những chuyện kết nghĩa
ngày xưa, những người này “ăn
cùng mâm, ngủ cùng chiếu”, Còn những
người ái nam ái nữ không bị
kỳ thị, nhưng được tuyển vào
cung làm thái giám. Ngày nay, tại miền Nam Việt
Nam, người đồng tính nam giả gái
sinh hoạt công khai trong những nhóm múa
bóng rỗi, hát lô tô, hát đám ma,
đám cưới.., ở miền Trung và
Bắc trong những sinh hoạt đồng
bóng, hay hóa trang thành “con đĩ đánh
bồng’ tại những đám rước trong
dịp hội hè…Sở
dĩ Khổng Giáo, Lão Giáo có cái nhìn thoáng về
giới tính thứ ba vì trong triết
học Trung Hoa quan niệm
mọi vật đều có cả hai yếu
tố âm dương,
trong “âm” có “dương” và trong “dương” có
“âm”, không ai toàn âm hay toàn dương và mọi
người khác nhau trên tỷ lệ cao thấp
của “âm dương” mà thôi. Từ nhận
thức triết lý này đã ảnh
hưởng lên cách đối xử với
giới tính thứ ba khoan dung và bình thường
hơn những xã hội độc thần
giáo điều mù quáng của phương Tây
và Hồi Giáo. Hơn nữa, các
nước phương Đông quan niệm chuyện
“phòng the” là chuyện cá nhân, riêng tư
chứ không phải là chuyện công khai! Tuy nhiên,
tinh thần khoan dung này chỉ còn tồn tại
trong giới “lương”, còn giới Tây
học và “giáo” (công giáo) đã thay
đổi từ khi các nước
phương Đông bị thực dân xâm
lược và Tây hóa từ thế kỷ
thứ 19 đến nay!
Thái
Độ của Đạo Phật với
Đồng Tính:
Đạo Phật là đạo
Từ Bi, Trí Tuệ và Hỷ Xã.
Đức Phật đã phá bỏ
những đối xử phân biệt
đặt căn bản trên giai cấp, nam nữ.
Trong giáo đoàn của ngài có mặt
đầy đủ mọi thành phần xã hội
từ giai cấp vương tôn quý tộc
đến hạng hạ tiện nô lệ. Ngài tuyên
bố: “Không có giai cấp trong dòng máu cùng
đỏ, trong nước mắt cùng
mặn”.(6). Với tinh thần
Từ Bi đó ngài đã giải phóng
cho phụ nữ vốn bị khinh miệt trong xã
hội Ấn Độ, Ngài đã thành
lập giáo đoàn nữ khất sĩ đầu
tiên trên thế giới, Cho đến ngày nay
giáo đoàn nữ tu Phật Giáo này
vẫn là giáo đoàn duy nhất bình
đẳng với giáo đoàn nam tu sĩ
trên mọi phương diện.
Còn đối với
đồng tính thái độ của
đức Phật như thế nào? Đạo
Phật chủ trương mọi hiện hữu do nhân duyên. Con người
cũng thế, khi đầy đủ yếu tố
để thọ sinh thân nam thì sinh làm
người nam, đầy đủ yếu tố
nữ thì sinh thân nữ, hay giới tính
thứ ba. Các thân này là kết quả
của Nghiệp. Do
đó dị tính hay đống tính là
khuynh hướng tính dục tự nhiên của
từng giới tính và khuynh
hướng này không phải là hệ quả
của tập quán xã hội, vấn đề tâm
sinh lý hay đạo đức. “Chính Đức Phật không
bao giờ phê phán về mặt đạo
đức đối với những hành động t́nh dục đồng tính. Những
nguồn tư liệu sớm nhất cho thấy rằng
đồng tính luyến ái không
được bàn luận như
là vấn đề đạo đức.” (7) Tại Ấn
Độ cũng như tại Trung Quốc vấn
đề đồng tính không được quan
niệm là một tội ác như tại các
nước Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và
Hồi Giáo. Quan hệ đồng tính
được quan niệm như một biểu
hiện của tình bạn. Do đó vấn
đề này diễn ra khắp nơi và
được bàn luận công khai không úy
kỵ như linh mục Matteo Ricci, môt linh mục Dòng
Tên (Jesuite) sống 27 năm tại Trung Quốc, năm 1583
đã kinh ngạc trước thái độ
cởi mở và sự khoan dung của người
Trung Quốc đối với vấn đề
đồng tính: “Điểm
nêu rơ nhất sự bi thảm của
những người này không ǵ ít hơn là sự khao khát nhục
dục bẩm sinh; họ thực hiện những tham dục phi tự
nhiên, phản nghịch quy tắc của vạn vật, và sự việc này chẳng
những không bị nghiêm cấm qua luật pháp, mà cũng không được
xem là phi pháp hoặc là một
lí do để hổ thẹn. Nó
được luận bàn công khai và được thực hiện ở mọi nơi mà không ai ngăn cản.” (8). Ông ta đã xem đây là dấu hiệu của sự sa đọa như câu chuyện trong
Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo về thành Sodom
và Gomorrah (9). Có lẽ sâu thẳm trong tâm
trí ông ta cầu mong Thiên Chúa
sẽ thiêu đốt Trung Quốc như đã thiêu
đốt hai thành trên vì không kết án
đồng tính!
Trong quan hệ
tình dục của người tại gia,
đức Phật chỉ ngăn cấm chuyện
tà dâm để bảo vệ hạnh phúc gia
đình và không gây đau khổ cho người
khác. Tà
Dâm là giới thứ ba trong năm giới.
Phật Giáo quan niệm tà dâm là sự quan
hệ không chung thủy, ngoài hôn nhân, bạo lực tình dục
hay quan hệ với súc vật. Đức
Phật nói “hành động nào mang đến
hạnh phúc cho người khác là hành
động thiện và hành động nào mang
đến đau khổ cho kẻ khác là hành
động bất thiện” (Dhammapada). “Nguyên tắc Ahimsa (bất hại) yêu cầu rằng không nên cố ư làm tổn
thương tâm hồn và
thể xác của người khác, chẳng hạn, nghiêm cấm hiếp dâm, giao cấu với
trẻ em, quấy rối t́nh dục, loạn
luân. Hơn nữa, tất cả mọi mối quan hệ,
trong đó có quan hệ tính dục,
phải được thể hiện bằng
đức tính thương yêu và ḷng từ bi vô hạn. “Nguyên tắc
vàng” dạy rằng: Cái ǵ mà ḿnh không muốn th́ đừng
làm cho người khác” (10) Với những nguyên
tắc hạnh phúc như thế đức
Phật không phân biệt đồng tính hay dị
tính.
Tu sĩ và tình dục: Mặt khác đạo Phật không
khuyến khích sinh sản vì sinh sản là
tiếp nối vòng luân hồi khổ não. Khi hay tin
Rahula đã ra đời, đức Phật
đã than: “Xiềng xích đã trói
buộc, làm trở ngại cho sự tu tập
giác ngộ” (11). Vì không muốn các đệ
tử xuất gia vướng bận chuyện gia
đình vợ con phiền toái làm
trở ngại cho việc tu tập, đức
Phật đã ngăn cấm các tu sĩ có
hành vi dâm dục. Vị xuất gia nào vi phạm
sẽ bị trục xuất ra khỏi giáo
đoàn. Giới Dâm Dục là một trong bốn
giới trọng, gọi là Ba La Di (12). Hơn nữa lối
sống của tăng đoàn thời
đức Phật: khất thực mỗi ngày
và ngủ dưới gốc cây, thì không thể
nào chấp nhận cho tu sĩ có đời
sống gia đình. Mục đích của Đạo
Phật là không vướng mắc vào
dục vọng để giải thoát. Trong mục đích diệt dục đó vấn đề giới tính của hàng xuất gia không phải là vấn đề thảo
luận.
Thời đức
Phật, vấn đề đồng tính không
được đặt ra và không bị
đối xử phân biệt. Trong tất cả Kinh
Luật của Phật Giáo, không thấy nơi nào
đức Phật kết án đồng tính
là tội lỗi hay cấm đoán đồng
tính gia nhập giáo đoàn; và
đức Phật cũng không hề cấm
đoán Phật tử tại gia có quan hệ
đồng tính.
Nhưng trong thời
hiện đại thái
độ của các tông phái Phật Giáo
đối với vấn đề đồng
tính khác biệt nhau hoàn toàn. Điều
này xảy ra có lẽ vì mức độ
Tây phương hóa của từng quốc gia. Phật
Giáo Nhật Bản rất cởi mở và
chấp nhận đồng tính là một quan
hệ cần thiết của các tu sĩ trên
bước đường tu tập (13). Trong khi
đó Phật Giáo Nam Truyền tại Thái Lan
nghiêm cấm đồng tính gia nhập giáo
đoàn (14). Sự việc hòa thượng
Pisam Thamapatee trục xuất cả ngàn vị tăng
đồng tính ra khỏi giáo đoàn năm
2003! Trên phương diện
thân thể cũng như tâm lý, những
người đồng tính cũng bình
thường như những người dị
tính. Nếu những người đồng
tính không phạm giới thì không có lý
do để trục xuất, Còn nếu trục
xuất vì lỳ do phạm giới thì
giới tính không phải là nguyên nhân. Do
đó chúng ta thấy quyết định này
không đặt căn bản trên tinh thần
giới luật Phật Giáo, mà đặt
trên quan niệm cá nhân.
Còn đức
Đạt Lai Lạt Ma thì có thái độ thủ
cựu của Phật Giáo Tây Tạng vẫn cho
rằng quan hệ đồng tính là tà dâm!
Tuy rằng ngài tìm cách cảm thông
với cộng đồng đồng tính, không
kết án đồng tính như các tôn giáo
độc thần, nhưng vẫn không xem đồng
tính là bình thường (15).
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh của Phật Giáo Làng Mai thì
cố giang tay đón nhận đồng tính,
bày tỏ thái độ đồng cảm,
tạo cơ hội cho đồng tính tu tập
chuyển hóa (16).
Đồng
Tính Có Được Thọ Đại
Giới?
Với câu hỏi này chúng
ta có những câu trả lời khác nhau. Có
quan niệm cho rằng đồng tính không được xuất
gia thọ giới vì những lý do sau:
1/ Người nam hay nữ
đồng tính tuy họ mang thân hình người
nam hay thân nữ nhưng khuynh hướng tính
dục của họ hướng về
người đồng giới. Do đó khi
ở trong chùa, đồng tính nam sẽ yêu
đương quý thầy; và đồng tính
nữ sẽ yêu đương quý cô. Điều
này sẽ gây phiền toái và làm trở
ngại công việc tu tập của tăng ni.
2/ Theo các vị này, trong
luật quy định, những ai là “hoàng môn” thì không
được thọ giới xuất gia như Sa
Di, Tỳ Kheo, vì “hoàng môn” là đồng tính.
Quan niệm trên có phải là
quan niệm chính thống của đạo Phật?
Chúng ta hãy duyệt qua những Kinh Luật
Phật Giáo để xem những người
đồng tính có được xuất gia
thọ giới hay không?
Sau đây là những quy
định trong Giới
Đàn Tăng, Giới Đàn Ni về
những trường hợp không
được thọ giới:
Thứ nhất, Luật Phật
Giáo không cho phép người “lục căn
bất cụ”, nghĩa là người không
đủ sáu căn thì không được
thọ đại giới. Nhưng người
đồng tính có đầy đủ sáu
căn (lục căn cụ
túc) (17). Như thế họ có đủ
điều kiện thân thể tráng kiện, tâm lý
bình thường thì không lý do gì
để từ chối họ trong việc thọ
giới.
Thứ hai, Giới Luật
cấm những người “hoàng môn” không
được thọ giới. “Hoàng môn” nghĩa là gì? Đại khái
“hoàng môn” là người thiếu bộ
phận sinh dục như thái giám. Chúng ta
sẽ tìm hiểu ý nghĩa chữ “hoàng
môn” trong phần sau để thấy rằng đồng
tính không phải là “hoàng môn”. Vì
người đồng tính có bộ phận
sinh dục bình thường và có khả
năng tình dục như mọi người.
Thứ ba, vấn đề yêu
đương đồng giới sẽ gây
trở ngại cho tăng đoàn. Theo luật
xuất gia, bất kể đồng tính hay dị
tính khi phạm giới “ái dục” đều
bị trục xuất ra khỏi giáo đoàn. Khi
bồ đề tâm (18) không vững thì đều
phạm giới, ngay cả những đệ
tử của đức Phật. Do đó
đức Phật đã chế ra giới
luật để duy trì sự thanh tịnh và
hòa hợp trong giáo đoàn.
Thứ tư, mục đích
xuất gia là cầu giải thoát sanh tử,
trong đó ái dục là căn bản của
sinh tử luân hồi. “Tại
gia ngũ giới duy chế tà dâm, xuất gia
thập giới toàn đoạn dâm dục”: nghĩa là: năm
giới của Phật tử tại gia chỉ
cấm tà dâm; còn mười giới
xuất gia cấm hoàn toàn vấn đề dâm
dục (19). Do đó đồng tính hay dị
tính ở đây đều phải diệt
dục.
“Hoàng
Môn” Có phải là Đồng Tính:
Trước khi thọ giới,
giới tử được hỏi 12 câu “vấn
nạn” (những câu hỏi về đời
tư) (20). Nếu giới tử nào trả
lời “có” của bất kỳ câu nào trong 12 câu
đó thì không được thọ
giới. Câu vấn nạn dễ gây hiểu lầm có liên quan
đến vấn đề đồng tính là câu
vấn nạn thứ 5: “Các
vị có phải hoàng môn không?”
“Hoàng
môn” nghĩa là gì?
Trong Phật
Quang Đại Từ Điển, quyển 2, Thích
Quảng Độ dịch, Paris, 2012, trang 2222:
“Hoàng môn (黃門):
Phạm: pandaka. Dịch âm: Bán trạch ca, Ban tra, Ban
đô ca, Bán trạch, Bán
thác ca. Dịch ý: Yêm nhân (người bị
thiến, hoạn); Bất nam (người bất
lực): chỉ cho người có nam căn
bị hủy hoại.
Luật
Thập Tụng quyển 21 và Luật Tứ
Phần quyển 35, 39 chia Hoàng Môn
thành năm loại, gọi là Ngũ Chủng
Hoàng Môn (Phạm: Panca pandaka), Ngũ Chủng Bất
Năng Nam, Ngũ Chủng Bất Nam. Đó là:
1/ Sinh bất năng nam: cũng
gọi là sinh Hoàng Môn (Phạm: Jati-pandaka), chỉ
cho người sinh ra đã không có nam căn
và không có khả năng hành dâm.
2/ Bán nguyệt bất năng nam: cũng
gọi Bán bất nam, Bán nguyệt hoàng môn
(Phạm: paksa-pandaka), người có thể
nửa tháng hành dâm, nửa tháng không
thể.
3/ Đố bất năng nam: cũng
gọi Đố hoàng môn (Phạm: Irsya-pandaka), chỉ
cho người thấy kẻ khác hành dâm
liền khởi tâm dâm.
4/ Biến bất năng nam: cũng
gọi Biến hoàng môn, Bào sinh hoàng môn, Tinh
bất năng nam, Xúc bảo hoàng môn (Phạm:
Asak-tapradurbhavi-pandaka): chỉ cho người lúc
muốn hành dâm thì bỗng nhiên mất nam căn.
5/ Bệnh bất năng nam: cũng
gọi kiện bất năng nam, Kiện bất nam,
Hình tàn hoàng môn (Phạm: Apat-pandaka): chỉ cho
người sinh ra nam căn đã bị hư
nát, hoặc vì trùng cắn mà
bị đứt mất nam căn.
Luận Câu xá quyển 15 chia Hoàng môn làm 2 loại: Phiến sỉ
(Phạm: Sandha) và Bán trạch ca (Phạm: pandaka). Câu xá luận quang kí quyển 3
th́ giải thích thêm và nêu 5 loại Hoàng môn là: Bản tính
phiến sỉ (tương đương với sinh
bất năng nam), Tổn hoại phiến sỉ
(tương đương với Bệnh bất năng
nam), Tật đố bán trạch ca (khi thấy
người khác hành dâm th́ nam căn mới th́nh ĺnh phát
khởi), Bán nguyệt bán trạch ca (tương
đương với Bán nguyệt bất năng nam) và
Quán sái bán trạch ca (khi tắm rửa nam căn mới
th́nh ĺnh phát khởi). C̣n luật
Ma ha tăng ḱ th́ có thuyết Lục chủng bất
năng nam , tức là Sinh, Nại phá, Cát
khước, Nhân tha, Đố và Bán nguyệt. Trong đó,
Nại phá bất nam , chỉ cho vợ
cả vợ lẽ đồng thời sinh con trai, v́ ghen
ghét lẫn nhau, nên bên này phá hư nam căn (sinh thực khí)
của đứa bé bên kia ngay từ lúc c̣n nhỏ Cát
khước bất nam , chỉ cho các Hoạn quan, Nhân tha
bất nam chỉ cho người v́ xúc chạm với
người đối diện mà th́nh ĺnh nam căn phát
khởi. Giới luật qui định những loại
người nói trên đây đều không được
xuất gia thụ giới Cụ túc. [X. luận Đại t́ bà sa Q.3; luận Đại
thừa a t́ đạt ma tạp tập Q.8; Tứ phần
luật hành sự sao tư tŕ kí Q.thượng phần 3
đoạn 1; Câu xá luận quang kí Q.15; Huyền ứng âm
nghĩa Q.24]”
Hoàng
môn (黃門): Phạn ngữ là paṇḍaka, ư
nghĩa ban đầu của từ này được dùng
để chỉ những quan hoạn mặc áo vàng trong
cung cấm của vua, là những người đă tự
thiến dương vật. Về sau, hoàng môn
được dùng để chỉ chung
những người tuy mang dáng vẻ nam giới nhưng
không có dương vật, hoặc người tật
khuyết nam căn. Từ này chỉ chung
những kẻ do tật khuyết nam căn (dương
vật), hoặc do có bệnh tật, hoặc bị
thiến... (21) nên không thể làm
việc hành dâm.
Như thế “hoàng môn” là
người không có bộ phận sinh dục nam,
hay bị thiến, không có khả năng sinh dục.
Với định nghĩa trên, xét kỹ các loại “hoàng môn’
đều không phải là đồng tính.
Vì đồng tính nam hay nữ đều
có nam căn hay nữ căn đầy đủ
và đều có khả năng tình dục.
Tại sao đức Phật không
cho phép “hoàng môn” thọ Cụ Túc Giới
(22). Vì “hoàng môn” là người thiếu
bộ phận sinh dục, do đó tâm sinh lý không
bình thường. Những người
này có thể tập sự xuất gia
để gieo duyên , nhưng không
được thọ đại giới. Người
xuất gia là bậc đại trượng phu,
là bậc thầy của chư thiên và loài
người, là người đại diện
cho đức Phật tuyên dương giáo pháp
cao thương, do đó vị tu sĩ phải là
người có thân thể tráng kiện, tướng
mạo đoan trang, tinh thần minh mẫn, đầy
đủ trí tuệ.
Tại sao có sự giải
thích nhập nhằng giữa “hoàng môn”
và “đồng tính”?
Thứ nhất, quý vị
này chỉ nghe loáng thoáng, nhưng chưa
tìm hiểu thấu đáo danh từ “hoàng
môn”, do đó mới đưa đến
sự ngộ nhận này.
Thứ hai, có lẽ ảnh
hưởng thái độ bất khoan dung của
truyền thống Cơ Đốc Giáo phương Tây
trong quá trình Tây hóa của các
nước phương Đông. Trong thời thực dân, đất
nước bị ngoại bang cai trị, chính
quyền thực dân rêu rao chính sách “khai hóa”
và chúng ta bị nhồi sọ mặc cảm
‘lạc hậu”, nghĩa là tất cả những
gì không phải phương Tây đều là thiếu
văn minh! Từ
đó chúng ta tôn thờ họ, bắt chước
lối sống “văn minh” Tây phương mà không
chọn lựa. Chúng ta vô tình bị nhồi
sọ trong giáo điều của các tôn giáo Âu
Mỹ, hoặc chúng ta sử dụng
những sách do các học giả Tây
Phương viết theo
quan niệm Cơ Đốc Giáo (23);
để rồi đánh mất truyền thống nhân
hòa, độ lượng của Phật Giáo.
Sai lầm này đã gây đau khổ cho hàng
trăm triệu con người tại khắp
nơi trên thế giới!
Các
Vị La Hán Đồng Tính:
Để
trả lời câu hỏi: Đức Phật có
cho phép đồng tính xuất gia không? Người
đồng
tính có khả
năng giác ngộ không? Qua các câu chuyện về những
đệ tử của đức Phật cho
chúng ta thấy tấm lòng từ ái bao la
của Ngài không những chấp nhận
đồng tính gia nhập vào giáo đoàn,
nhưng Ngài cũng cho thấy những đệ
tử đồng tính này đều có
khả năng giác ngộ.
1/
Chuyện Soreyya: Soreyya là con trai của
vị chưởng khố ở thành Xá
Vệ. Lúc anh ta cùng bạn và tùy tùng
ra ngoài thành đi tắm; anh ta gặp
trưởng lão Đại Ca Chiên Diên (Maha Kaccayana)
lúc ngài đang thay y. Say mê trước vẻ
đẹp tuấn tú của trưởng lão,
anh mơ ước kết hôn cùng trưởng
lão. Tức thì anh hóa thành một cô
gái xinh đẹp. Hổ thẹn, Soreyya bỏ đi,
rồi làm vợ cho một trưởng
giả. Cuối cùng Soreyya ăn năn
sám hối, được trở lại thân
nam và được tôn giả Maha Kaccayana cho
xuất gia, thọ giới Tỳ Kheo. Sau đó
Soreyya chứng quả A La Hán. Kể câu chuyện
này xong, đức Phật nói bài kệ:
Điều mẹ, cha, bà con
Không có thể làm được
Tâm
hướng chánh làm được,
Làm được tốt đẹp hơn.
(24)
Qua câu chuyện này, chúng ta
thấy ngài Soreyya là người song tính,
đức Phật cho xuất gia, thọ giới
Tỳ Kheo và chứng quả A La Hán. Như
thế đức Phật cho thấy vấn đề
khuynh hướng tính dục không phải là
chướng ngại cho việc tu tập và
chứng đạo.
2/
Chuyện đôi bạn thân thiết
(Tiền thân Abhinha): Đức Phật kể tại
tinh xá Kỳ Viên chuyện thân thiết của một
nam cư sĩ và
một trưởng lão lớn
tuổi ở thành Xá Vệ. Hàng ngày
vị xuất gia đến nhà người kia. Vị cư sĩ cúng
dường thức ăn và
tự mình cũng ăn. Sau đó vị cư
sĩ theo về tinh xá, họ
ngồi nói chuyện với nhau cho đến khi
mặt trời lặn vị cư sĩ
mới trở vào thành. Và vị Tỳ
Kheo tiễn bạn đến tận cổng thành. Sau
đó đức Phật cho biết sự quan
hệ khắn khít đó bắt nguồn
từ tiền kiếp khi họ làm thân con voi
và con chó. (25)
3/
Chuyện Vakkali: Vakkali là con của
một Bà La Môn ở Savitthi, say mê vẻ đẹp
của Đức Phật xin xuất gia để
được gần Phật. Tuy ở trong
giáo đoàn nhưng anh ta không tu tập gì
cả, suốt ngày chỉ theo nhìn Phật mà
thôi. Một hôm Đức Phật bắt
gặp cái nhìn đắm đuối
của anh ta, Đức Phật hỏi: “Con nhìn
cái thây ma thối tha làm gì?”.
Sau đó anh ta bị đuổi khỏi giáo
đoàn. Xấu hổ và tuyệt vọng anh ta
định tự tử. Đức Phật
biết ý định đó đã đến
cứu anh ta và Ngài dạy: “Ai nhìn thấy
Pháp là nhìn thấy Phật, và ai nhìn
thấy Phật là nhìn thấy Pháp”. Anh ta
giác ngộ và trở về giáo
đoàn. (26)
Trong câu chuyện này đức
Phật đuổi Vakkali ra khỏi giáo đoàn
vì anh ta phạm giới chứ không phải
vì anh ta đồng tính. Sau khi anh ta ăn năn sám hối đức Phật
chấp nhận anh ta trở lại giáo
đoàn.
4/
Chuyện đôi bạn Citta-Sambhuta:
Đức Phật kể chuyện tại Kỳ Viên
về hai người bạn đồng tu Citta và
Sambhuta. Hai người này sống rất hài
hòa, thân thiết, chung cùng
mọi thứ; ngay khi khất thực, cùng
đi và cùng về, hai vị không rời nhau
một bước. Tăng chúng tán thán
tình bằng hữu đó. Đức
Phật nhân đó kể chuyện tình bằng
hữu của Ngài và Ananda. Hai người
đã khắn khít qua nhiều tiền kiếp,
từ kiếp làm hai thanh niên Chiên Đà La tên
là Citta và Sambhuta, Sau đó đầu thai
làm hai con nai, rồi hai chim ưng, kế tiếp
làm vua và ẩn sĩ. Đời nào
kiếp nào cả hai đều quấn quít
với nhau. Cuối cùng đức Phật
nói: “Vào thời ấy Ananda là trí
giả Sambhuta và Ta chính là trí giả Citta.”
(27)
Đức
Phật Ca Ngợi Tình Đồng Tu.
Qua những câu chuyện trên,
đức Phật và tăng đoàn ca
ngợi tình bằng hữu của hai
người bạn đồng tu. Vì
con đường tu tập là con
đường đơn độc, đầy gian
nan, do đó đức Phật khuyến khích
người tu nên có một bạn đồng tu. Hai
người giúp đỡ nhau trong cuộc
sống, cũng như trên sự học hỏi và tu
tập. Đức
Phật không khuyến khích quan hệ dục cảm,
nhưng Ngài khuyến khích quan hệ tâm
linh. Thật quý báu khi hai người
đồng tu hiểu nhau và sách tấn để
cùng nhau tiến đến giải thoát. Đây
là một loại tình cảm trong sáng,
thánh thiện và giải thoát. Trong kinh gọi
tình bạn cao thượng này là “thiện hữu tri
thức” (người bạn tốt giúp
đỡ nhau trên phương diện kiến
thức và tâm linh) (28). Trong lối sống của
tăng sĩ ngày xưa, khất thực và
ngủ gốc cây; thì những người
bạn đồng tu là kẻ bảo vệ, là
người đồng hành tốt nhất. Do
đó quan hệ này là điều cần
thiết trong việc phát triển đời
sống tâm linh.
Trong con mắt phàm tục với
ảnh hưởng quan
niệm tình dục lệch lạc, đầy mặc
cảm của phương Tây, họ sẽ nhìn quan
hệ này là quan hệ đồng tính, một
sự quan hệ tội lỗi! Chính thái
độ quá coi trọng vấn đề truyền
giống để loài người sinh sôi nấy
nở như lời dạy trong Thánh Kinh
Cựu Ước, các tôn giáo sử
dụng thánh kinh này đã kết án và
giết chết các mối quan hệ đồng
tính giữa con người và con
người. “Michel Foucault
cũng cho rằng trong thế
giới của chúng ta quan hệ giữa
người với người đă “nghèo nàn” đi
bởi sự quan trọng quá mức của quan
hệ gia đ́nh: Chúng ta sống trong một
thế giới mà luật pháp, xă
hội và hiến pháp làm cho những quan hệ
của chúng ta trở nên rất ít ỏi,
rất nghèo nàn và rất đơn giản.
Tất nhiên, chúng ta có những quan hệ cơ
bản về hôn nhân và gia đ́nh, nhưng ngoài
ra c̣n có biết bao nhiêu những quan hệ khác nữa có
thể tồn tại…” (29)
Có lẽ
thái độ coi trọng tình bạn cùng
giới và ca ngợi tình bạn thiêng liêng
này của Phật Giáo, cũng như tình
bằng hữu trong Khổng Giáo đã
khiến cho các nước phương Đông
có cái nhìn khoan dung, thiện cảm với
quan hệ đồng tính. Trong lịch sử Ấn
Độ, Trung Quốc cũng như tại các
nước Á Châu khác, chưa bao giờ
người đồng tính bị đối
xử phân biệt, và các hành động
tính dục đồng tính cũng chưa bao
giờ bị kết án là tội lỗi
như tại các nước theo tôn giáo
độc thần phương Tây và Trung Đông.
Trước thế kỷ 19, nghĩa là
trước phong trào thực dân phương
Tây, người dân tại các nước Á
Châu coi chuyện quan hệ đồng tính là
chuyện bình thường, là biểu hiện
thân tình giữa hai người bạn cùng
giới yêu thương nhau. Người
đồng tính ngày xưa không có nhu cầu
kết hợp nhau trong hôn nhân như ngày nay. Vấn
đề kết hôn đồng tính ngày nay phát
khởi từ những nước Tây
Phương, đây có lẽ là phản ứng
mạnh mẽ chống lại sự kết án
cuồng tín, dã man với những
sự bách hại của những nhà
thờ Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và Hồi
Giáo đối với người đồng
tính.
Kết
Luận:
Qua những phân tích trên
chúng ta thấy đức Phật không bao
giờ có cái nhìn tiêu cực về
người có khuynh hướng tính dục
đồng tính. Trong năm giới cho
người tại gia, đức Phật chỉ
cấm tà dâm, nghĩa là chung
thủy với người bạn đời
của mình, bất kể là đồng tính
hay dị tính. Ngài không bao giờ kết án
đồng tính là tà dâm (30).
Ngài cũng không cấm
người đồng tính xuất gia hay thọ
giới Tỳ Kheo. Qua những câu chuyện trên về
các đệ tử của Ngài, chúng ta
đã thấy cũng có vị là đồng
tính và chứng quả A La Hán. Như
thế khả năng giác ngộ ở đồng
tính, dị tính hay phụ nữ đều
ngang nhau.
Trong tự điển Phật
Giáo không có mặt danh từ “đồng
tính”. Đức Phật giữ thái
độ hoàn toàn im lặng trong vấn
đề này. Nếu có phát biểu về
sự giao tình thân thiết giữa hai vị
khất sĩ, Ngài phát biểu với
sự trân trọng vè một đạo tình
trong sáng , thánh thiện của
“thiện hữu tri thức”.
“Hoàng môn“ không
phải là đồng tính như một số
người lầm tưởng. Trong Luật
Tỳ Kheo, đức Phật không cho phép
những người “hoàng môn” thọ
giới. Hoàng môn là những
người thiếu bộ phận sinh dục nam, hay
bộ phận sinh dục bị hư hỏng và không
có khả năng tình dục. Lý do không
được thọ giới là vì tâm sinh
lý không quân bình.
Có người lý luận
rằng các sư đồng tính sẽ
quấy nhiễu các sư khác. Lý luận
này không vững vì người xuất gia “toàn đoạn dâm dục”
(31) nghĩa là hoàn toàn không có hành vi
dâm dục. Nếu có vấn đề phạm
giới thì dầu đồng tính hay dị
tính đều áp dụng giới luật
để xử trị.
Đạo Phật là đạo
từ bi và trí tuệ. Lòng từ bi
của đức Phật là vô lượng vô
biên, không điều kiện và không giới
hạn. Khi chúng ta đặt điều kiện
để xuất gia hay nhận thức sai lầm
vế đồng tính là chúng ta đã không
có từ bi và trí tuệ. Với sự
sai lầm này chúng ta đã biến đạo
Phật trở thành đạo kỳ thị
đồng tính, ngang tầm với Cơ
Đốc Giáo và Hồi Giáo. Nhận
thức lệch lạc về đồng tính
đã gián tiếp trách nhiệm về cái
chết của hàng triệu thanh thiếu niên
đồng tính khắp thế giới.
Vấn đề đồng tính
là nỗi đau lớn của nhân loại.
Suốt mấy ngàn năm qua đồng tính
đã bị những người cuồng
tín của các tôn giáo sử dụng
Thánh Kinh Cựu Ước truy đuổi
và bách hại. Điều này đã
đưa đến cái chết của hàng
triệu sinh mạng và sự tự tử
của hàng triệu thanh thiếu niên khắp thế
giới. Phật tử không bao giờ
tiếp tay cho
những sự đối xử phân biệt
dã man này.
Ngày 26 tháng 6 năm 2017, Tối
Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) ra phán
quyết công nhận hôn nhân đồng tính. Hành
động này đã cứu mạng hàng
mấy chục ngàn thanh thiếu niên đồng
tính tại Hoa Kỳ và
hàng triệu người khác trên thế
giới khỏi thảm nạn
tự tử hàng năm. Đây là cuộc cách mạng
vĩ đại xóa bỏ kỳ thị đồng
tính trên khắp hành tinh mà Hoa Kỳ là
nước tiên phong.
Phật Giáo chấp nhận và
bảo bọc những người thuộc
giới tính thứ ba như sự bảo
bọc và thương yêu mọi giới tính
khác từ hơn 2500 năm trước.
Đức Phật chủ trương mọi
người đều có Phật tính, do
đó những người thuộc
giới tính thứ ba đều có khả
năng thành Phật. Lòng Từ Bi của
đạo Phật không cho phép người Phật
tử làm hại bất kỳ chúng sanh
nào, huống là con người.
Chùa Pháp Nguyên, Texas, Hoa Kỳ.
Mùa Phật Đản 2020
Thích Trí Hoàng
_____________________________________
(1)
Wikipedia:
Suicide Among LGBT Youth: “A U.S. government study, titled Report
of the Secretary's Task Force on Youth Suicide, published in 1989, found
that LGBT youth are four times more likely to attempt suicide than other young
people.[11] This higher prevalence of suicidal ideation and overall
mental health problems among gay teenagers compared to their heterosexual peers
has been attributed to minority
stress.[12][13] "More than 34,000 people die by suicide each
year," making it "the third leading cause of death among 15 to 24
year olds with lesbian, gay, and bisexual youth attempting suicide up to four
times more than their heterosexual peers."[14] ": (11)Report
of the Secretary's Task Force on Youth Suicide".
Eric.ed.gov.
Retrieved 2011-08-21. (12) "Definition of Bisexual suicide
risk". Medterms.com. October 27, 1999. Archived from the original on
December 8, 2011.
Retrieved August 21, 2011.(13) ^ Meyer, IH (September 2003). "Prejudice, social stress, and
mental health in lesbian, gay, and bisexual populations: conceptual issues and
research evidence". Psychological
Bulletin. 129 (5): 674–97. doi:10.1037/0033-2909.129.5.674. PMC 2072932. PMID 12956539. (14) Jump up to:a b "Additional Facts about Lesbian,
Gay, Bisexual, and Transgender Youth".
Thetrevorproject.org.
Retrieved 2011-08-21.
(2)
Xem thần thoại Hy Lạp.
(3)
Những đoạn trong
Thánh Kinh Cựu Ước (Old Testament)
đã kết án đồng tính: “Hai thành
phố Sodom và Gomorrah thác loạn đồng
tính, vì vậy Thiên Chùa đã trừng
phạt bằng ngọn lửa vĩnh
hằng” (Genesis 19). “Nếu một người nam
làm tình với một người nam,
họ phải bị xử tử” (Leviticus 20:13).
Trong Thánh Kinh Tân Ước (New Testament): “Paul
chứng minh rằng: Dục vọng đồng
tính không phải chủ ý ban đầu của
Thiên Chúa. Những dục vọng bệnh hoạn
của chúng ta là dấu hiệu xa rời Thiên
Chúa” (Romans 1:18-32). “Kẻ thực hành
đồng tính không được thừa
hưởng Nước Chúa. Tội lỗi
đồng tính là nghiêm trọng, không độc
nhất và và không tránh thoát”(Corinthians
6:9-10). “Kẻ thực hành đồng tính
là phản lại giáo điều chính
thống” (Timothy 1:8-10).
(4)
Thomas Aquinas, Homosexuality and the
Natural Law.
(5)
Năm giềng mối quan
trọng giữa người và
người: vua tôi (quân thần); cha con (phụ
tử); vợ chồng (phu phụ), anh em (huynh
đệ); bạn bè (bằng hữu).
(6)
Đức Phật
độ cho Sunita, vốn làm nghề gánh phân.
Thích Nhất Hạnh, Old
Path White Clouds,Parallax
Press, California, 1991, chapter 43, page 278.
(7)
Damien Keown “Quan Diểm của
Phật Giáo về Tính Dục, Hôn Nhân và
Đồng Tính” Gia
Quốc dịch trong Nguyệt
San Giác Ngộ, Thư Viện Hoa Sen.
(8)
“Đồng Tính Luyến Ái và Phật
Giáo Thượng Tọa Bộ (Nam Truyền) “Homosexuality and Theravada Buddhism”,
Tác giả: A. L. De Silva, Janapadaratna, Thư Viện
Hoa Sen.
(9)
Xem chú
thích (2)
(10) Damien
Keown, như trên.
(11) Wikipedia, Rahula: The Pāli account claims
that when he receives the news of his son's birth he replies "rāhulajāto bandhanaṃ jātaṃ", meaning 'A rāhu is
born, a fetter has arisen', that is, an impediment to the search for
enlightenment.
(12) Ba
La Di (parajika) là trọng tội. Gồm bốn
trọng tội: sát sinh, trộm cắp, dâm
dục, vọng ngữ. Khi vị Tỳ Kheo phạm
vào 4 giới này thì không được
sám hối và bị trục xuất ra khòi
giáo đoàn.
(13) Ở Nhật Bản, ảnh hưởng của những h́nh tượng t́nh
dục Tantric mô tả sự
giao hợp giữa nam và nữ thực
ra là không đáng kể.
Quan trọng hơn là ảnh hưởng của
những h́nh tượng cảm
dục đồng giới và thậm chí t́nh dục đồng giới
trong những tổ chức Phật
giáo nam, nơi mà những chú
tiểu đẹp được coi như hiện thân của nguyên tắc nữ giới. Việc Đạo Phật cho phép thậm chí tu sĩ cũng có những sinh hoạt t́nh dục đồng
tính được thể hiện rơ
qua huyền thoại nổi tiếng về
người sáng lập trường
phái Shingon, Kooboo Daishi (Kuukai), người đă nhập môn t́nh dục đồng
giới vào Nhật sau khi đi tu học ở Trung Quốcvề vào đầu thế
kỷ thứ chín. Huyền thoại này nổi tiếng tới mức thậm
chí Gaspar Vilela, một nhà du hành Bồ
Đào Nha cũng nghe đến. Ghi chép vào năm
1571, ông phàn nàn về thói nghiện
“kê gian” (sodomy) của những tu
sĩ tại núi Hiei. Những ghi chép của những
người truyền đạo Jesuit
chứa đầy những ta thán về sự hiện diện khắp nơi của
ham mê t́nh dục đồng
tính trong chùa chiền Nhật Bản.
Điều làm những nhà truyền
đạo bực dọc là xem
ra những thói quen này
được chấp nhận rất rộng răi. Cha cố Francis Cabral ghi lại
trong một bức thư viết năm 1596 rằng “sự
ghê tởm của da thịt” và những “thói quen ma quỷ”
được “coi là danh giá tại Nhật Bản. Dharmachari Jnanavira, “Đồng Tính Luyến
Ái Trong Truyền Thống Phật Giáo Nhật
Bản”, Talawas lược dịch.
(14) Vào tháng 7 năm 2003, Ḥa
thượng Pisarn Thamapatee, một trong những vị Tỳ kheo nổi
tiếng của Thái Lan, đă cho rằng có cả
ngh́n vị Tỳ kheo đồng
tính trong số 300.000 Tỳ kheo trên
đất nước này, tuy nhiên nhiều
người khác lại ước
đoán một con số thấp hơn nhiều.
Cho dù đó là con số thực, ngài đă ra lệnh trục
xuất họ khỏi Tăng đoàn và cần phải có sự nghiêm khắc hơn đối với
các thành viên thọ giới.
Ngài bộc lộ quan điểm rằng, những
người t́nh dục lệch
lạc không được khoác pháp phục,
bởi: “Một số Tỳ kheo đồng
tính là nguyên nhân của mọi
sự rắc rối trong tu viện”. Quan Điểm của Phật Giáo vè
Tình Dục, Hôn Nhân và Đồng Tính. Damien
Keown – Gia Quốc dịch Thư Viện Hoa Sen.
(15) Đức Đạt Lai Lạt Ma
lúng túng trong khi trả lới các lãnh
đạo Phật tử đồng tính Hoa Kỳ:
“From a Buddhist point of view, men-to-men and women-to-women is generally
considered sexual misconduct. From society's point of view, mutually agreeable
homosexual relations can be of mutual benefit, enjoyable and
harmless." San Francisco Chronicle, June 11, 1997. (Từ quan điểm
Phật Giáo (theo Ngài), quan hệ nam-nam
nữ-nữ thông thường
được coi là tà dâm. Từ quan
điểm xã hội, mọi người
đồng ý quan hệ đồng tính có
thể mang lại lợi ích, hoan hỷ và
bất hại).
(16)
Q. What is the Buddhist view of
homosexuality?
The spirit of Buddhism is inclusiveness… Someone
who discriminates against you, because of your race or the color of your skin
or your sexual orientation, is ignorant. He doesn’t know his own ground of
being. He doesn’t realize that we all share the same ground of being; that is
why he can discriminate against you. (Quan điểm Phật Giáo về
đồng tính là gì? Tinh thần Phật Giáo là dung hợp... Ai
đối xử phân biệt với bạn trên
căn bản chủng tộc, màu da, hay giới
tính, đó là vô minh. Người đó
không hiểu nền tảng sự sống của
họ. Người đó không hiểu rằng
tất cả chúng ta chia sẻ một nền tảng
chung của sự sống vì vậy họ phân
biệt đối xử bạn)
Thich Nhat Hanh, Answers from the Heart: Practical Responses To Life’s Burning
Questions (Berkeley: Parallax
Press, 2009), 119-122.
(17) Lục căn bất cụ: sáu căn
không đầy đủ. Sáu căn là Nhãn
(mắt); Nhĩ (tai); Tỷ (mũi); Thiệt
(lưỡi); Thân (thân thể); Ý (tâm lý). Thân bao
gồm tay chân và bộ phận sinh dục. Xem
Giới Đàn Tăng, Nghi Thức Thọ
Tỳ Kheo Giới.
(18) Bồ
Đề Tâm: tâm cương quyết tu tập giải
thoát, với chí nguyện trên cầu Phật
đạo dưới
cứu độ chúng sanh.
(19) Xem
Sa Di Thập Giới trong Luật Sa
Di.
(20) Mười
hai vấn nạn: 1/ Biên tội (trước đã
xuất gia phạm trọng giới). 2/ Nhiễm ô
Tỳ Kheo Ni. 3/ Tặc tâm xuất gia. 4/ Phá nội
ngoại đạo (trước theo
ngoại đạo, nay xuất gia, rồi trở
lại ngoại đạo). 5/ Hoàng môn. 6/ Giết cha.
7/ Giết mẹ. 8/ Giết A La Hán.
9/ Phá Yết Ma Tăng (phá sự hòa
hợp của Tăng đoàn). 10/ Làm cho thân
Phật ra huyết (phá chùa, phá
tượng). 11/ Phi nhân (thần nhân biến hiện).
12/ Nhị hình (người có hai bộ
phận sinh dục).
(21) Ý
nghĩa của từ hoàng môn trong hệ thống
Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật
giáo Việt Nam cung cấp.
(22) Cụ
Túc Giới hay Đại Giới là giới Tỳ Kheo
(250 giới) hay Tỳ Kheo Ni (348 giới). Sau
thới gian tập sự, hành giả nam hay
nữ được phép thọ Cụ Túc
Giới để chính thức trở
thành đệ tử xuất gia, là
trưởng tử của Như Lai,
người kế thừa sự nghiệp hoằng
hóa của chư Phật.
(23) Peter
Harvey, trong tác phẩm An Introduction to Buddhist:
Foundations, Values and Issues (Trường Đại
học Cambridge ấn hành, năm 2000),
đă kết luận rằng, Pandakas chỉ cho
loại người loạn chức năng ham
muốn t́nh dục đồng tính nam. C̣n Zwilling th́
cho rằng Pandakas là loại ham muốn xấu xa, có
thể là “lệch lạc t́nh dục, đồng
tính luyến ái”.
(24) Kinh
Pháp Cú 43 (quyển 3, câu 9).
(25) Tiểu
Bộ Kinh Tập IV, Phẩm Kurunga.
(26) Sathienpong
Wannapok, “When Gays Sees the Dhamma” , 1987, page 60,
cited in Winston Leyland, Queer Dharma,
San Francisco, Gay Shunshine Press, 2000, page 74.
(27) Tiểu
Bộ Kinh, Tập VIII. Chuyện Tiền Thân
Đức Phật V, Chương XV, Phẩm Hai
Mươi Bài Kệ, Chuyện Tiền Thân Citta-Sambhuta.
(28) Thiện
hữu tri thức: Kalyana-mitra (sanskrit),
Nghĩa của Thiện Hữu Tri Thức • Thiện có
nghĩa là hiền và đạo đức, Tri là sự hiểu
biết chơn chánh, c̣n Thức là thức tỉnh, không mê
muội và tham đắm nơi các duyên đời nữa.
* Kinh Itivuttaka Sutta: The Group
of Ones” – bản dịch Anh của Thanissaro Bhikkhu. Đức Thế Tôn nói rằng: “Đối
với các yếu tố bên ngoài, ta không thấy có bất kỳ
yếu tố nào khác quan trọng như t́nh bạn đạo
đáng quư để giúp một học tăng, người
chưa chứng quả nhưng vẫn c̣n trên đường
t́m giải thoát. Một vị sư được cơ
duyên làm bạn với những người đáng quư sẽ
rời bỏ các bất thiện pháp, và sẽ phát triển
các thiện pháp.” * Kinh Upaddha
Sutta: Half (of the Holy Life)” – bản Anh dịch của
Thanissaro Bhikkhu. Ngài Ananda nói với
Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, đây là một
nửa đời sống thánh hạnh: t́nh bạn đáng
quư, t́nh đồng hành đáng quư, t́nh đồng đội
đáng quư.” Đức Phật:
“Đừng nói thế, Ananda. Đừng nói thế. T́nh bạn
đáng quư, t́nh đồng hành đáng quư, t́nh đồng
đội đáng quư thực sự là toàn bộ đời
sống thánh hạnh. Khi một nhà sư có những người
đáng quư trọng làm bạn, đồng hành và đồng
đội, nhà sư đó có thể được mong
đợi là sẽ phát triển và theo
được con đường Thánh đạo Tám ngành.”
* Kinh Mitta Sutta: A Friend” – bản
Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu. Đức Thế Tôn nói rằng: “Các tỳ kheo, một
người bạn có 7 phẩm chất xứng đáng
được thân cận. Bảy phẩm chất nào? Bạn
đó trao tặng những ǵ khó trao tặng. Bạn đó
làm những ǵ khó làm. Bạn đó chịu đựng những
ǵ khó chịu đựng. Bạn đó tiết lộ cho bạn
những ǵ bí mật của bạn đó. Bạn đó giữ
kín những bí mật của ngươi. Khi bất hạnh
xảy ra, bạn đó không bỏ rơi ngươi. Khi
ngươi thất bại, bạn đó không coi thường
ngươi. Một người bạn có 7 phẩm chất
như thế xứng đáng được thân cận.”
(29) Dharmachari
Jnanavira, “Đồng Tính Luyến Ái Trong Phật
Giáo Cổ Nhật Bản”, Thư Viện Hoa Sen.
(30) Tỳ kheo
Thanissaro, viện chủ Tu viện
Metta Forest ở thành phố
Escondido miền nam California cũng cho
biết đức Phật chưa bao giờ cấm hàng Phật tử tu tại gia quan hệ đồng tính luyến ái.
Sư Thanissaro trích dẫn kinh
điển nguyên thủy nói rằng: “Khi đức Phật vạch ra ranh giới giữa quan hệ chăn gối
hợp pháp và bất hợp pháp, ngài không hề đề cập
đến bất cứ một điều ǵ về
hương vị của quan hệ t́nh dục
hoặc sở thích về giới
tính. Dường như đức Phật
chú trọng hơn đến việc không xâm phạm các đ̣i hỏi hợp pháp mà người khác có thể
có đối với người hôn phối
của bạn.” “Đồng Tính Luyến Ái Có Được Phật Giáo Chấp Nhận Không”, Thư Viện Hoa Sen
(31) Luật
Sa Di, Giới Thứ Ba: Không Dâm Dục.